Loader

Quý Trọng Sự Sống Đại Sư Philip Kapleau – Nguyễn Văn Nhật (Dịch)

Bởi : | 0 Bình luận | On : 29 Tháng Mười, 2019 | Danh mục : Dinh dưỡng

Quý Trọng Sự Sống Đại Sư Philip Kapleau - Nguyễn Văn Nhật (Dịch) 1


QUÝ TRỌNG SỰ
SỐNG

Đại sư Philip
Kapleau – Nguyễn Văn Nhật dịch


Quý Trọng  Sự Sống Đại Sư  Philip Kapleau - Nguyễn Văn Nhật (Dịch)Thỉnh thoảng vẫn có người hỏi tôi rằng tại sao
Phật giáo quý trọng sự sống đến như vậy, trong khi có vẻ như việc mọi sinh vật
đều ăn nuốt lẫn nhau để mà sống mới chính là luật tự nhiên. Quả thật đúng, quy
luật
cuộc đời là mọi sinh vật đều được nuôi dưỡng bằng sinh mạng của các sinh
vật khác. 

Chúng ta nhận
thấy
điều đó trong toàn thể sự sống, từ những sinh thể sơ đẳng nhất cho đến
những sinh vật cao cấp nhất. Vì đề mục thảo luận này thường dẫn tới việc xác
định nên hay không nên ăn thịt, chúng ta hãy đặt sự bàn bạc ấy trong phạm vi
của vấn đề ăn thịt điều có thể làm cho vấn đề trở nên dễ hiểu hơn. 

Chẳng hạn,
người ta sẽ bảo. Tôi hiểu rằng một số Phật tử không ăn, không dọn thịt cá, là
vì những lý do tâm linh, bởi lẽ việc ăn hay dọn [các thức ăn có] thịt [có] cá sẽ
làm cho họ trở thành kẻ đồng lõa với việc giết hại. Thế còn việc ăn rau quả thì
sao? Thực vật cũng có đời sống mà. Và nhất là trong những năm gần đây, chúng ta
đã được nghe nói quá nhiều về việc cây cỏ cũng có cảm thức". 

Câu trả lời
đây là sự tồn tại có nhiều cấp bậc. Cùng lúc chúng ta hiện hữu trên hai cấp độ.
Một cấp độ, có thể được gọi theo thuật ngữ triết học, là “vô đều kiện” hay
“tuyệt đối”. Ở cấp độ tuyệt đối này của sự sống, chúng ta không thể thực hiện
bất kỳ một sự phân biệt nào giữa thấp và cao, giữa tốt hơnxấu hơn. Ở đó,
chúng ta không thể nói rằng việc lấy đi sinh mạng của một con bò là tệ hại hơn
việc lấy đi sinh mạng của một cái cây hoặc việc cho đi một cái cây còn đỡ xấu
xa
hơn việc giết một con bò. 

Đó là cấp độ
của sự bình đẳng chân thật. Ở đó, cá lội tung tăng giữa những cảnh cây trong
lúc chim bay dập dờn dưới đáy biển. Ở đó không có sự phán biệt. Ngược lại, ở cấp
độ được gọi là "tương đối", chúng ta mới thực hiện sự phân biệt; tại
đây, có cả một giai tầng của những biến cốgiá trị. Một điều chắc chắn là ở cấp
độ này, mạng sống của Einstein quý giá hơn mạng sống của một con chuột không
biết đến bao nhiêu lần… Tương tự, việc giết một con bò phải được coi là đáng
ghê tởm hơn việc ngắt một bông hoa. 

Cách đây không
lâu tôi có dịp nói chuyện với một người làm việc trong ngành kinh doanh thịt
với tư cách một nhà phân phối, và câu chuyện của chúng tôi liên quan đến nội
dung quyển sách của Upton Sinclair có tựa đề là Bãi chăn thả súc vật. Quyển
sách xuất hiện trong thập niên 1920 và có kể về những sự kiện khủng khiếp liên
quan đến
súc vật bị giết hại trong những bãi chăn thả ấy. Vì người nói chuyện
với tôi cũng đã đọc quyển sách này nên tôi hỏi ông ta. "Sự việc có được
cải thiện chút nào không?". Với gương mặt thể hiện một chút xấu hổ, ông ta
trả lời, "Nói thật với ngài, tôi nghĩ rằng sự việc còn tệ hại
hơn". 

Vậy là, trong
lúc về nhiều phương diện có vẻ như ngày nay chúng ta mẫn cảm hơn trong vấn đề
đối xử với súc vật, thực tế, nhận thức đó không hề thâm nhập vào cốt tủy của cuộc
sống của chúng ta. Trên phương diện động lực nội tại của hoạt động con người
nói, việc giết một con bò tệ hại hơn việc ngắt một cành hoa vì việc giết con bò
đòi hỏi nhiều năng lượngcố gắng hơn. Hệ thống thần kinh của con bò hiển nhiên
phát triển hơn. Trên cái thang của sự phát triển ấy, chắc chắn việc lấy đi mạng
sống của một con người lại còn tệ hại hơn việc giết một con bò rất nhiều. 

Vậy thì, ở cấp
độ tương đối chúng ta thực hiện sự phân biệtchúng ta có một thang giá trị. Thế
nhưng thực ra cùng lúc chúng ta sống ở cả hai cấp độ, tương đốituyệt đối.
Chỉ có điều là phần lớn con người không hề có nhận thức về cấp độ tuyệt đối, và
vì thế họ tin tưởng một cách đơn giản rằng mọi vật đều phải được nuôi sống bằng
sinh mệnh của một thứ gì đó. Vậy là việc giết hại dường như không thể tránh
khỏi
vì sự tôn trọng đối với sự sống vẫn chưa được biết đến. 

Vẫn còn một
khía cạnh thứ yếu, đó là mọi sự còn tùy vào cách mà chúng ta lấy đi sinh mạng
của sinh vật khác. Chính trạng thái tâm thức của chúng ta vào lúc chúng ta lấy
đi
sinh mạng của sinh vật khác quyết định rằng hành động đó có phải là một sự
sai lầm về đạo đức hay tâm linh không. Việc giết súc vật, săn bắn thú rừng
v.v… có thể được thực hiện trong trạng tháichú tâm mà không hề có
tưởng phân biệt
giữa ta và ngoài ta, không hề có ý định, giết hại chỉ để giết
hại mà thôi. Trong trường họ đó, hành động lấy đi sinh mạng của một sinh thể
khác không phải là một vấn đề. Nếu một người buộc phải thực hiện việc giết hại
vì để có thực phẩm hay vì vấn đề sức khỏe, chẳng hạn việc giết một thứ côn
trùng gây bệnh, việc đó có thể được thực hiện với sự thương cảm và sự xin
lỗi

Trong những
hội
săn bắn-hái lượm truyền thống, có một cảm giác chân thực về việc xin lỗi,
“Tao xin lỗi phải lấy mạng sống của mày vì tao cần thực phẩm . Hãy tha thứ cho tao!”.
Đó cũng là một cách để chỉ ra sự đồng nhất của con người với cuộc sống. Hơn
nữa, còn có một ý thức đặc trưng về trách nhiệm khủng khiếp gắn liền với bất kỳ
hành động giết hại nào. Các nền văn hóa truyền thống biết rất rõ rằng toàn thể
sự sống liên kết với nhau và thực sự có tính cách thiêng liêng. Và vì thế họ
không săn bắt một cách khinh suất. Họ biết rằng việc giết hại là một hiểm họa
tâm linh. Thế nhưng, những kẻ hoài nghi sẽ nói, “Có quá nhiều điều tốt được
mang lại cho con vật, nó được xin lỗi cơ đấy!”. Câu nói đó thể hiện sự thiếu
hiểu biết về cấp độ vô điều kiện, cấp độ tuyệt đối. Ở đó mọi sự đều liên kết
với
nhau; thiếu đi việc nhận ra rằng toàn thể sự sống, toàn thể những sự liên
kết
, đều ảo diệu, huyền bí và linh thiêng

Các bạn sẽ thấy
rằng, trong việc huấn luyện về Thiền, toàn thể vấn đề giết hại thường được đưa
vào cuối cuộc huấn luyện vì đó là một vấn đề sâu xa cần được hiểu biết rốt ráo.
Có một cấp độ của sự sống mà ở đó việc lấy đi bất kỳ một mạng sống nào trong
bất kỳ một hoàn cảnh nào cũng mang lại cho bạn một cảm giác tội lỗi về mặt tinh
thán. Thế rồi bạn tiến đến một cấp độ có tính toàn diện hơn, ở đó bạn có thể
biện minh cho việc giết hại bằng một đều tốt hơn

Chẳng hạn, nếu
có một con chó điên chạy rông trong thành phố và có khả năng cắn một ai đó, hẳn
là bạn sẽ bắn hạ con chó ấy. Nhưng đứng về mặt tâm linh mà nói, rất nhiều điều
còn phụ thuộc vào việc bạn bắn hạ con chó điên ấy như thế nào. Nếu bạn giết con
chó ấy với sự giận giữ, Đồ chó điên! Cho mày chết đi!”, hoặc với sự điên cuồng,
sự sợ hãi hay sự bốc đồng… có thể bạn đã gây ra một vấn đề rồi đấy. Nhưng nếu
việc giết con chó điên được thực hiện không phải vì sự ghét bỏ mà chỉ là một
điều cần phải làm, có sự nhận biết trọn vẹn và có cả lòng thương xót đối với
con vật, khi đó, hành động ấy trở nên một điều hoàn toàn khác. Đã có một sự
chuyển hóa thật sự về điều phân biệt tương đối giữa người xạ thủ và con vật
hoặc bất kỳ sinh thể nào bị tước đi mạng sống. Ngay cả khi ngắt một cành hoa,
nếu bạn buộc phải nhổ một cành hoa, việc xin lỗi bằng cách nói với cành hoa ấy
một cách chân thành, “Tôi chẳng hề có ý làm hại bạn" sẽ mang lại một hiệu
quả
tích cực, tinh tế. Một cõi của sự bình đẳng và của sự trị liệu đã mở
ra. 

Vậy là đối với
người Phật tử, điều xấu ác chính là sự phân biệt và sự ghét bỏ đối với chính
mình và đối với người khác. Người theo đạo Phậtmười giới điều phải giữ, tất
cả đều dẫn xuất từ ý niệm về sự phân biệt và sự ghét bỏ ấy, đó là: không giết
hại, không nói dối, không trộm cắp, không có những quan hệ tình dục bừa bãi,
không sử dụng rượu và các loại thuốc làm cho đầu óc u mê đồng thời không khuyến
dụ người khác sử dụng những thứ ấy, không tự đề cao mình mà lại nói xấu người
khác, không vạch lỗi của người khác, không bủn xỉn trong việc giúp đỡ người
khác về vật chất hay tinh thần, không trút sự giận dữ của mình, và không coi
thường
Tam bảo (nghĩa là Phật, giáo pháp của Phật và cộng đồng những người tự
nguyện sống chung với nhau theo đúng giáo pháp của Phật; thường gọi là Phật,
Pháp, và Tăng). Ngoài ra, người Phật tử còn có ba điều quyết tâm chung, đó là tránh
làm những việc xấu ác, chuyên tâm làm những điều lành, và giải thoát mọi sinh
thể có tình thức. 

Không làm những
điều xấu ác thực sự có ý nghĩa là đừng tự tách rời mình khỏi cuộc sống thường
nhật của chính mình, khỏi cái thế giới đúng như nó đang phơi mở ra chung quanh ta.
Sự tách rời có nghĩa là phủ nhận hay phủ định bản chất thật của chính chúng ta,
mà chính là trong cái bản chất thật ấy mới tồn tại mọi sự thanh tịnh, mọi sự
lương thiện, mọi đức tính. Chúng talòng từ ái tự trong bản chất với tính
cách
đặc điểm tâm linh của chúng ta ngay từ lúc chào đời. Chúng ta không cần
phải
góp nhặt những đức tính đó từ bên ngoài. Đạo Phật rao truyền rằng chúng ta
vốn dĩ lương thiện, theo ý nghĩamột sinh thể toàn bộtrọn vẹn, không hề
bị tách rời. Tránh những điều xấu ác có nghĩa là tránh thực hiện những việc làm
cho chúng ta bị tách rời khỏi, bị xa lánh bởi, bị ghẻ lạnh bởi sự sống. Và thực
hiện
những điều lành có nghĩa là khẳng định bằng một đường lối xác quyết về sự
thống nhất thiết yếu của mọi thực thể

Mười giới đều
của đạo Phật (như là không giết hại, không trộm cắp v.v…) được nêu ra từ cái
nhìn của một Bậc Giác ngộ đã được nhận thức một cách trọn vẹn. Những giới điều
đó là một sự biểu thị về đường lối mà một vị Phật sẽ hành động. Điều đó có
nghĩa là một chúng sinh đã phát triển tâm thức đến mức độ cao tột như vậy sẽ
không giết hại vì sẽ chẳng có gì để giết hại, chẳng hề có nhận thức nào về cái
không phải là mình. Vả chăng, sự giận dữ, sự bạo hành, và các trạng thái tâm lý
hành động xấu ác khác, đều nổi lên từ một cảm giác bất an, một cảm tưởng của sự
bị tách rời, bị cô lập. Ngay cả những giới đều đỏ vốn là nguyên lý được phát
biểu
từ quan điểm của một vị Phật, chúng ta cũng hãy cố gắng hết sức để có thể
theo được những giới điều ấy. 

Bây giờ, câu
hỏi phải được đặt ra là: "Có ai đó tấn công bạn, bạn phải làm gì? Phải
chăng
bạn có quyền tự bảo vệ? bạn có đánh trả hay không?". Hoặc hãy đặt ra
một vấn đe cho nó có tính cách nghiêm trọng hơn, "Giả sử có kẻ có ý định
hoặc đã – đánh đập con bạn một cách tàn nhẫn hoàn toàn không có lý do – bạn sẽ
làm gì? Một người Phật tử muốn thành trong trường hợp đó sẽ làm gì? Điều rắc
rối
là người ta chỉ muốn một câu trả lời có hoặc không, một câu trả lời trắng
ra trắng, đen ra đen. Chẳng hề có điều đó đâu. Thực ra, người ta chẳng bao giờ
biết được mình có ý định làm điều gì. Tuy nhiên, là Phật tử, chúng ta còn có
những giới điều nói trên như một thứ kim chỉ nam hành động. 

Bạn có thể nghĩ
rằng, nếu bạn đã bị đánh, bạn sẽ đánh trả. Bạn có cái quyền đó mà! Nhưng bạn có
quyền thật không? Sự thừa nhận này là một loại ước định. Có một ghi nhận thú vị
là ngay cả luật pháp cũng quy định rằng bạn không thể sử dụng một sức mạnh
nhiều hơn mức cần thiết để đẩy lùi một cuộc tấn công. Nếu một người tát vào mặt
bạn một cái tát mà bạn chụp lấy khẩu súng để bắn người đó thì rõ ràng hành động
của bạn không thể được biện hộ bởi bất kỳ một bộ luật hợp pháp nào. 

Một đứa trẻ có
thể giẫm lên một con bọ hung một cách vô tâm. Nhận thức của đứa trẻ là sự sống
của con bọ hung không quan trọng. Con bọ chỉ cản đường đứa trẻ, vậy mà đứa trẻ
đã lấy đi mạng sống của con bọ. Chắc chắn đứa trẻ đó đã chứng kiến những người
trưởng thành phản ứng với sự căm phẫn, bực bội hay sợ hãi đối với côn trùng…
Điều đó thiết lập một loại ước định về sự phản ứng trong trường hợp căm phẫn,
bực bội hay sợ hãi. Và như thế mà thói quen bạo hành được truyền từ thế hệ này
qua thế hệ kia. Toàn thể cái ý niệm về vấn đề bạo hành, dù là thuộc phần kẻ tấn
công hay phần người tự bảo vệ, đều phụ thuộc vào trạng thái tâm thần riêng của
bạn. Ở một trình độ nào đó, bạn có thể phản ứng theo cách thức này; ở một trình
độ
phát triển hơn, bạn sẽ phản ứng theo lối khác. 

Trong tập tự
truyện của mình, Thánh Gandhi có kể lại sự thể khi ngài kiên trì ngồi vào chỗ
dành cho người da trắng trên những chuyến xe buýt ở Nam Phi. Hậu quả là ngài bị
đánh đập nhưng không bao giờ ngài đánh trả. Ngài chỉ tự bảo vệ mình, hệt như
phản ứng của những người biểu tình bất bạo động ở Hoa Kỳ, luôn luôn nhẫn nại
tiến bước. Việc chống trả thường chỉ kích thích sự bạo hành mãnh liệt hơn mà
thôi. 

Một sự quý
trọng
đối với sự sống mở rộng trong tâm trí chúng ta đến những sinh thể mà
chúng ta xem là có hại như côn trùng hoặc hơn nữa, đến những kẻ bị coi là kẻ
thù
của chúng ta như những kẻ áp bức là điều được nâng đỡ và trau dồi thông qua
việc thực hành ngồi thiền. Nuôi dưỡng công phu ngồi thiền và những thái độ phát
triển từ công phu ấy, cộng đồng những người hành trì theo phương pháp của Phật
giáo
cung cấp một chốn nương thân cho những hành giả trước một nền văn hóa rộng
lớn hơn chi khuyến khích sự gây gổ trong việc giải quyết những tranh cãi và mâu
thuẫn
. Bất kỳ người nào cũng đều có thể thực hành để trở nên chú tâm hơn và
biết quý trọng hơn về sự thống nhất của sự sống. Ngay cả kiến thức để một
phương pháp giải quyết như thế có thể xảy ra cũng là điều đáng quý. Cuối cùng
thì nhu cầu đánh trả, mặc dù có vẻ hết sức tự nhiên, cũng chỉ xuất phát từ sự
phân biệt và nỗi sợ hãi

Khi toàn bộ sự
sống thực sự được thấy là có chung một gốc rễ, có liên hệ chặt chẽ với nhau, có
tỉnh chất thiêng liêng, khi ấy, ngay cả trong một nền văn hóa bạo lực những biện
pháp
đáp trả mới sẽ xuất hiện, và cuối cùng, cái chu kỳ bạo lực cổ lỗ sẽ phải
chấm dứt

Đại sư
Philip Kapleau- Nguyễn Văn Nhật
(dịch)

 

Năm
1965, Đại sư Philip Kapleau từ Nhật Bản trở về Hoa Kỳ và ngay năm sau, 1966,
ông thiết lập Trung tâm Thực hành Thiền định Rochester
New York.
Ngay từ khi mới thành lập, Trung tâm này đã thu hút thiền sinh trên toàn thế
giới
đến thực hành thiền. Ngày nay, giáo lýảnh hưởng của Đại sư Philip
Kapleau mở rộng khắp vùng Bắc Mỹ và một số nước ở Tây Âu. 

Thời thanh
niên, Kapleau học luật rồi trở thành một phóng viên lấy tin ở các toà án tiểu
bang và liên bang thuộc Connecticut, Hoa Kỳ. Năm 1945, ông được chỉ định lấy
tin tại Toà án Quốc tế Quân sự ở Nuremberg, sau đó ông được gởi đến Tokyo để
đưa tin về Toà án Tội nhân chiến tranh đang diễn ra tại đây. Đến Nhật, ông tiếp
xúc
với ngài D.T. Suzuki và điều đó đã thay đổi hẳn hướng đi của đời ông. Vào
năm 1950, khi ngài Suzuki sang Mỹ giảng dạy về Phật giáo Nhật BảnĐại học Columbia, ông Kapleau,
lúc ấy đã trở về Mỹ, có ghi tên học về triết học Phật giáo. Tuy nhiên, việc
tiếp cận Phật giáo theo khảo hướng thuần tuý tri thức đã không làm ông thoả
mãn. 

Năm 1953, ở
tuổi 42, ông giải tán doanh nghiệp truyền thông của mình để trở lại Nhật với
khao khát tìm được sự chứng ngộ. Ông đã trải qua mười ba năm thực hành miên mật
về thiền định với nhiều vị thiền tăng danh tiếng Nhật Bản trước khi thụ giới
với bổn sư là ngài Hakuin Yasutani và được ngài cho phép hoằng pháp vào năm
1965. 

Đại sư Philip
Kapleau là tác giả của nhiều tác phải thiền học quan trọng. Quyển The Three
Pillars of Zen (Bản dịch Việt ngữ của Như Hạnh: Tam Trụ Thiền) vẫn được giới
học
thuật Âu Mỹ coi là tài liệu nhập môn tiêu chuẩn về thực hành Thiền
định

Đại sư Philip
Kapleau thị tịch ngày 6 tháng 5 năm 2004 tại Thiền viện Rochester vì biến chứng
của bệnh Parkinson hưởng thọ 92 tuổi.

Nguyễn Văn Nhật
dịch

    Trả lời

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *